Quân đội nhân dân Việt Nam 78 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành.
Cách đây 78 năm,
thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa
hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình,
tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam
được thành lập. Dưới sự lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện của Đảng ta và của Chủ
tịch Hồ Chí Mình, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành,
QĐND Việt Nam luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và
CNXH; đã cùng với toàn dân làm nên những chiến thắng vang dội, xứng đáng là
công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân, làm nòng cốt cho toàn dân
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay từ những ngày
đầu thành lập, với 34 chiến sỹ, trang bị vũ khí còn rất
thô sơ nhưng đã làm nên chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, mở ra truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng" của Quân đội ta. Tháng
5/1945, Hội nghị Quân sự Bắc kỳ của Đảng quyết định hợp nhất
các tổ chức vũ trang trên cả nước thành Việt Nam Giải phóng quáân,
và đã cùng toàn dân làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám năm
1945 vĩ đại, giành độc lập dân tộc, tạo tiền đề cho sự ra đời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng Hoà - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam
Giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc quân. Năm 1946 thành Quân
đội quốc gia Việt Nam và đến năm 1950 được đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt
Nam.
Trong cuộc kháng
chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, quân đội ta đã trưởng thành nhanh chóng, phát triển cả về lực lượng,
vũ khí, phương tiện kỹ thuật và đặc biệt là kinh nghiệm tác chiến. Nhờ đó trong
thế trận chiến tranh nhân dân. quân đội ta đã tổ chức nhiều chiến dịch với quy
mô ngày càng lớn. Với tinh thần “quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh” trong những ngày đầu kháng chiến chống
thực dân Pháp tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã đã làm tiêu hao, tiêu
diệt và giam chân một lực lượng lớn quân địch tạo điều kiện cho cả nước chuyển
vào kháng chiến lâu dài, đến phản công tiêu diệt địch làm nên thắng lợi tron
chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947; mở đường
thông với các nước xã hội chủ nghĩa bằng chiến dịch Biên giới năm
1950. Trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân
1953-1954, với 5 đòn tiến công chiến lược, ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực
địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn và giành thắng lợi quyết định trong Chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước, quân đội ta đã xây dựng được
các binh chủng, quân chủng với vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật tương đối
hiện đại. Đặc biệt, đến giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến đã thành lập các
quân đoàn chủ lực cơ động. Nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam
trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược đã phát triển đến đỉnh cao, nhất là
nghệ thuật tác chiến chiến dịch, chiến lược và sự chỉ đạo phối hợp tác chiến giữa các chiến
trường. Ở miền Bắc, quân đội đã tham gia
cùng toàn dân xây dựng CNXH; đồng thời đánh
bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc
“hậu phương lớn” miền Bắc, chi viện cho ‘tiền tuyến lớn” miền Nam, Ở miền Nam quân đội đã phát huy vai trò
nòng cốt trong đấu tranh quân sự, kết hợp
chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh trên mặt trận
ngoại giao; thực hiện phương thức tác chiến của các binh đoàn chủ lực kết hợp
với chiến tranh nhân dân địa phương; đánh bằng ba mũi giáp công: Chính trị,
quân sự, binh vận; trên cả ba vùng chiến lược: Thành thị, nông thôn và miền núi, tạo thành sức
mạnh tổng hợp làm phá sản các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh
cục bộ”, “Việt Nam hoá chiến tranh”, kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước bằng cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến
dịch lịch sử Hổ Chí Minh toàn thắng.
Đất nước thống nhất, cả nước tiến hành hai nhiệm vụ
chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, QĐND Việt Nam thực sự là lực lượng nòng
cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Cùng với nhiệm
vụ chiến đấu, quân đội ta tích cực tham gia hàn gắn vết thương chiến tranh,
phòng tránh thiên tai, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; tuyên truyền, vận động nhân dân
thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở; giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, xoá đói giảm
nghèo, thực hiện an sinh xã hội, tham gia xây dựng nông thôn mới...Qua đó góp
phần xây dựng “thế trận lòng dân” củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước. Với chức năng “đội quân lao động sản xuất” quân đội ta mà nòng cốt là
các đơn vị quốc phòng - kinh tế, các nhà máy, xí nghiệp quốc phòng đã tích cực
tham gia lao động sản xuất, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, nâng cao đời
sông nhân dân và củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh trên các địa
bàn chiến lược, biên giới, hải đảo. Quân đội ta không những hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ của dân tộc, mà góp phần cùng nhân dân Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ
quốc tế cao cả, đặc biệt là với nhân dân Lào và Campuchia.
Trải qua 78 năm
xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ quân đội ta đã xây dựng nên bản chất truyền thống tốt đẹp “ Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". như lời tuyên dương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm sáng danh hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, xứng danh là quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Ngày 22/12/1944, ngày
thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được Đảng và Nhà nước quyết
định lấy làm ngày thành lập QĐND Việt Nam. Thể theo nguyện vọng của nhân dân cả
nước, ngày 17/10/1989 Ban Bí thư
Trung ương Đảng quyết định lấy ngày thành lập QĐND Việt Nam 22/12 hàng
năm, đồng thời là ngày Hội quốc phòng toàn dân.
LLVT Xuân Bắc được tổ chức ngay từ khi giành chính quyền cách mạng
ở xã (23/8/1945). Thời kỳ đầu đội tự vệ các xóm trang bị chủ yếu là gậy tày,
giáo, mác. Đội tự vệ của xã được trang bị thêm 2 súng trường. Các đội tự vệ đã
thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ chính quyền cách mạng, an ninh thôn xóm và cùng với các tổ chức cứu quốc làm nòng
cốt trong thực hiện các nhiệm vụ cấp bách của thời kỳ mới.
Trong kháng chiến chống Pháp, đặc
biệt là thời kỳ địch hậu từ 10/1949, LLVT Xuân Bắc đã từng bước được củng cố,
trưởng thành, không sợ hy sinh gian khổ, hoạt động từ bí mật đến công khai và đến tháng 2/1952 xã nhà
cùng với nhiều làng xã quanh vùng chấm dứt thời kỳ gọi là “ hai năm bốn
tháng" dưới sự tàn bạo của thực dân Pháp và bọn tay sai. Thời kỳ
này được tôi luyện trong gian khổ, vững vàng bước vào cuộc chiến đấu mới bền bỉ
cho đến thắng lợi hoàn toàn 7/1954.
Trong kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt từ khi không quân Mỹ đánh phá
miền Bắc với quy mô ngày càng lớn, LLVT xã nhà luôn được kiện toàn. Phần lớn là
chị em phụ nữ đảm đang, chị em là lực lượng nòng cốt giữ gìn an ninh trật tư, nhanh tay cày,
chắc tay súng, sẵn sàng chiến đấu. tích cực thực hiện phong trào thi đua: hướng
ra tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt với khẩu hiệu: “Thóc không thiếu
một cân, quân không thiếu một người ” để cho lớp lớp thanh niên xã
nhà hăng hái lên đường ra trận hoà chung với thế hệ trẻ Việt Nam “ Xẻ
dọc Trường Sơn đi cứu nước ”. Với hơn một ngàn anh
chị em lên đường vào bộ đội, đi thanh niên xung phong chiến đấu, phục
vụ chiến đấu trên khắp các chiến trường nước Đông Dương.
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Xuân Bắc tiếp tục được củng
cố, tổ chức lực
lượng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ từng giai đoan. Đươc huấn
luyện về kỹ thuật chiến đấu theo kế hoạch của Ban chỉ huy quân
sư huyện: quản lý
chặt chẽ quân dự bị động viên; hoàn thành chỉ tiêu giao quân
hàng năm; cùng
với lực lượng An ninh, Cựu chiến binh làm tốt
nhiệm vụ giữ vững an ninh chính tri, trật tự an
toàn xã hội và luôn là một trong những lực lương xung kích, nòng cốt
thực hiện các nhiệm vụ đột xuất ở địa phương.
Trong các cuộc kháng chiến
chống xâm lược và bảo vệ Tổ quốc, nhiều gia đình và hàng ngàn cá nhân ở
hậu phương và tiền tuyến đã được Đảng, Nhà nước khen thưởng Huân, Huy
chương các loại, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, “Bảng vàng danh dự”, “Bảng
gia đình vẻ vang”, 17 bà mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng”. Cán bộ và nhân dân xã nhà được tặng thưởng Huân chương Chiến sỹ
hạng nhì và danh hiệu cao quý “Anh hùng LLVT nhân dân” thời kỳ chống Pháp.
Nhiều năm liền được khen thưởng về công tác quốc phòng an ninh và Bộ Tư lệnh
Quân khu 3 tặng cờ “Đơn vị liên tục đạt quyết thắng trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1965 -1975)”. Thời kỳ xây dưng và bảo vệ Tổ quốc được tặng thưởng một
Huân chương Lao động hạng Nhì, hai Huân Chương Lao động hạng ba. Lực lượng
dân quân được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba.
Sống trong hoà bình,
độc lập nhân dân cả nước nói chung và Xuân Bắc nói riêng mãi mãi khắc
ghi công ơn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; mãi mãi biết ơn các anh hùng
liệt sỹ, dòng máu vinh quang của các anh đã đổ xuống cho quê hương
ngày thêm tươi đẹp, nhân dân ấm no hạnh phúc, cho các em nhỏ tung tăng cắp sách
đến trường./.
Người
thực hiện: Lê Nguyên Hưởng chủ tịch Hội NCT