KỶ NIỆM 93 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (03/02/1930 - 03/02/2023) -----
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA
ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa
tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư
bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao
động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc
thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động
trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn
ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác -Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra
một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân
tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
Tháng 3 năm 1919,
Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai
trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước
- Năm 1858, thực dân Pháp xâm
lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc
gia phong kiến thành “một xứ
thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ
thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội
Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị
thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà
Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các
phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm.
Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách
bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên,
cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công
nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc
địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn
cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại,
xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục
lạc hậu.
- Sự phân hóa giai cấp và mâu
thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp
địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ
có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ
khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân
phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm
phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này,
không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ
và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày
càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
- Các cuộc khởi nghĩa và phong
trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ
nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cách
mạng
Trước sự xâm lược
của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của nhân dân
ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ
chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong
trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt
với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo
(1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng
không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi
vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất
bại,… Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu
nước.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu
nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Giữa
lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu
nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người
thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi
tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng giành độc
lập tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian
khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội
nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở
các nước thuộc địa.
- Đầu năm 1919,
Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 năm 1919, với tên mới là
Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi đến Hội nghị
Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đòi Chính phủ Pháp phải
thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
- Tháng 7/1920,
Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và
cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc lập tự do
thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
- Từ ngày 25 -
30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư
cách đại biểu Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán
thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
- Từ năm 1921 -
1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên
cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người tập
trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
(1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc, đồng thời
gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân
Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động
không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối
mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng
vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam
- Đáp ứng những đòi hỏi của
thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên đã thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng tại Hà
Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên quyết định thành lập An
Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách
mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức
cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể
thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một
Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt
Nam.
- Từ ngày 6/1 đến
ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành
lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất,
trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất
các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các
tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội
nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công
nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức,
bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách
lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại
hội thành lập Đảng.
- Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch
mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho cách
mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ
bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết
của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng
sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
- Sự kiện thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử
cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế
kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách
mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp,
của dân tộc.
- Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam
đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng
hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự
nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế
giới.
II. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 93 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo đấu tranh
giành chính quyền (1930 - 1945)
Sau khi ra đời,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao
trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945. Đó là:
- Cao trào
cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh: Làm rung
chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quần chúng cách mạng đã vùng dậy
trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính
quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức Xô Viết. Cao trào cách mạng
1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng
đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công - nông, về xây
dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh
giành và bảo vệ chính quyền.
- Cao trào cách mạng đòi dân
sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách
về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực
lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học
kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ
chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
- Cao trào cách
mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự
lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng
với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao
đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng
cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm
năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra
bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới;
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân
phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945,
tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông
đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám
năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toàn quốc”.
2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải
phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 - 1975)
2.1. Xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
(1945 - 1954)
- Trong những năm
1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng
cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946);
chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam
Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực
phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời
thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm
nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm
xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh
thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần
lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà
đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng
lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp
định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)
- Sau khi Hiệp
định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay
vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi
đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp,
biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ
của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng
Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân
nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm
cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng
ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang
và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên
cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính
trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh
thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh
anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta,
cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng
hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các
chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà
đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ðây là một
trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc
tế và có tính thời đại sâu sắc.
- Song song với cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả
chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và
đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ
thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức
người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền
Nam.
3. Thời kỳ tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975
đến nay
3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986
- Sau chiến tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh
chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy
trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã
bộc lộ những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy
ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng
kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn,
tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày
20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát
triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ
thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp”; Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi
mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng
6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa;
Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình
mới...
3.2. Từ năm 1986 đến nay
- Trên cơ sở đánh giá tình hình
đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã
đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trước bối cảnh mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới
tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định
tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách
làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương
hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Các nghị quyết của Đảng từ
Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường
lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công
cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và
chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn
thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ
trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban
hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội không
ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở
pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ
thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển
đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
- Qua gần 30 năm
thực hiện Cương lĩnh 1991 và 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước
ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt
qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế
tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước
hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói
giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu
phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo
đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn
định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước
được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu,
Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được
đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng
gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại
hội lần thứ XII (2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng
viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới
và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm
gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
- Những thành tựu
qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển
trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định
vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.
4. Những bài học kinh nghiệm
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn phong
phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta đã tích lũy và đúc
rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc
là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ
sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng
là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm
nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi
ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó
mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những
tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và
của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố,
tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân
tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn
của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong
bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh
thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực,
kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn
đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy
cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán
bộ, đảng viên.
III. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ
VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH, ĐẤT NƯỚC NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP
1. Những truyền thống vẻ vang
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện
bản chất tốt đẹp.
Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai
cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con
đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới
giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập; dân tộc ta
mới thật sự được tự do; nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh
phúc.
Đó là truyền
thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường
lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi
giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng
là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng,
nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.
Đó là truyền
thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân
dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng
từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của nhân dân làm nên
sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt
với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Đó là truyền
thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc
tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Trải qua
những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của
kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu
những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về
tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người
cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được nhân dân tin yêu,
bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi
thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.
Đó là truyền
thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục
tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành
công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục
phát triển.
Những truyền
thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một
tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết
quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu
không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.
Những truyền
thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh
thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế
phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách
mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng đưa ra
những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, đưa nước nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. Tích cực xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp,
văn minh
Những thắng lợi
vĩ đại trong 93 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động
nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của
Nhân dân ta. Đảng đã không ngừng tự đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng trước bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Đảng ta đã dành không
ít thời gian và công sức cho công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt, được đặt ra trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Đến nay, công tác
xây dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến tích cực và kinh nghiệm quan trọng.
Bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng lên; Đảng luôn vững vàng trước mọi khó khăn,
thách thức trong bối cảnh trong nước, khu vực, thế giới có nhiều diễn
biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và có những quyết sách phù hợp để chỉ đạo
xử lý kịp thời, hiệu quả. Bản chất, lập trường giai cấp công nhân của Đảng được
giữ vững. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và người đứng đầu các cấp từng
bước được nâng lên. Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có
tiến bộ; việc ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm, thực hành tiết kiệm, chống
tham nhũng, lãng phí có chuyển biến rõ nét. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân
dân, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao được nâng lên,
góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Niềm tin của cán
bộ và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố và nâng cao.
Tuy nhiên, công
tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều việc phải làm, nhất là việc đấu tranh chống suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá”; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân... Các thế lực thù
địch vẫn đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; chúng
ra sức xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta, đánh thẳng vào hệ tư tưởng, Cương
lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ
Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên
trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.
Trong tình hình
ấy, chúng ta càng cần phải tập trung làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng. Đại
hội XIII của Đảng đã xác định phương hướng công tác xây dựng Đảng trong nhiệm
kỳ là: Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội và đường lối đổi mới của Đảng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng.
Kết luận số
21-KL/TW, Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII xác định mục tiêu: Đẩy mạnh công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Kiên quyết đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng
viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, “xây”
là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu
dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát
triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn
minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin
tưởng; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Tự hào với những
thắng lợi đã đạt được, hướng tới tương lai tươi sáng, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn vững tay lái, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng
bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
IV. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG, QUYẾT TÂM XÂY
DỰNG XÃ XUÂN BẮC NGÀY CÀNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH
Ngay từ khi có Đảng lãnh đạo, nhân dân xã nhà đã cùng với cả nước một lòng
theo Đảng. Từ những biểu hiện của lòng yêu nước như: bí mật tiếp nhận nội dung những
truyền đơn về Đảng ở trường Kiêm Bị năm 1930; sự ra đời và hoạt động có hiệu quả
của Hội Tương Tế năm 1938 và 1945; diễn thuyết về Việt Minh cho số thanh niên đi
thuyền trên sông đến làng An Cư xem hội năm 1943; tham gia diễn thuyết về Việt
Minh ở chợ Trà Trung; Ninh Cường…năm 1945. Và trong khí thế sục sôi của cả nước,
ngày 23/8/1945 nhân dân Trà Lũ Bắc (xã Xuân Bắc ngày nay) nô nức về dự mít-tinh
tại khu trung tâm xã nghe đại diện của Mặt trận Việt Minh huyện Xuân Trường tuyên
bố thiết lập chính quyền cách mạng mới của xã. Tiếp theo là sự kiện lịch sử của
xã nhà đó là: Ngày 19/5/1947 chi bộ đầu tiên được thành lập. Từ đây, dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Huyện ủy, chi bộ Trà Lũ Bắc – đến năm 1963 là Đảng bộ xã Xuân
Bắc gánh vác sứ mệnh lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước đã giành nhiều
thắng lợi, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc và công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp
văn minh.
Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ đảng viên và mỗi người dân Việt Nam nói chung và
xã Xuân Bắc nói riêng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, tin tưởng tuyệt đối vào
sự lãnh đạo của Đảng; quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ ngày từ những
ngày đầu, quý đầu của năm 2023./.